
Cũng là học theo lối người xưa rằng: “Cảo thơm lần giở trước đèn” (Truyện Kiều- Nguyễn Du) nhưng cái “cảo thơm” (pho sách thơm, sách hay) trước mắt tôi đây không chỉ có một mà là cả tập dầy tư liệu về một địa danh đã đi vào lịch sử với ý nghĩa và giá trị sẽ còn mãi trường tồn cùng thời gian:
Ba Đình – Tên vàng lịch sử
Xin được ngược dòng lịch sử của đất nước, trở về những năm tháng cách nay hơn 1.000 năm, khi Lý Thái Tổ-vị vua khai sáng triều đại Lý- đã sáng suốt chọn vùng “ thắng địa ” bên dòng sông Hồng làm nơi “ thượng đô kinh sư mãi muôn đời ” (Chiều dời đô- Lý Công Uẩn) thì khu vực quận Ba Đình ngày nay tuy nằm trong kinh thành Thăng Long (về phía tây) nhưng vẫn là vùng ao đầm, sông hồ nhiều phần hoang sơ. Ngay từ ngày ấy, trên vùng đất thuộc Ba Đình bây giờ đã phát lộ thế địa lý minh đường, âm lai dương thụ; để rồi trải qua ba triều đại (Lý - Trần - Lê) nơi này đều được lựa chọn để dựng lên chính điện. Chỉ đến triều Nguyễn, khi thành Thăng Long không còn là kinh đô nữa, vùng đất Ba Đình mới chịu nhiều thay đổi. Địa bàn Ba Đình khi ấy bao gồm các xã, thôn, trại của huyện Vĩnh Thuận và một phần thuộc huyện Thọ Xương (Vĩnh Thuận và Thọ Xương là hai huyện thuộc phủ Hoài Đức, tương ứng với khu vực nội thành Hà Nội ngày nay). Hầu hết những tên xã, tên làng ngày ấy vẫn còn được lưu giữ và sử dụng đến nay, dù địa giới hành chính có nhiều thay đổi. Nhưng hai tiếng “Ba Đình” đến lúc này vẫn chưa xuất hiện.
Theo Giáo sư sử học Lê Văn Lan và nhiều nhà nghiên cứu lịch sử có cùng quan điểm: “Ba Đình” nguyên là địa danh của một khu vực thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Khu vực này gồm ba làng Mỹ Khê, Thượng Thọ và Mậu Thịnh; mỗi làng có một ngôi đình được dựng ở vị trí khi đứng ở đình này đều thấy được hai đình kia. Cuối thế kỷ XIX, hưởng ứng phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi, các thủ lĩnh Phạm Bành, Đinh Công Tráng,… đã chỉ huy nghĩa quân và người dân ba làng xây dựng một căn cứ chiến đấu với cấu trúc độc đáo, kiên cố, đã nhiều lần gây khốn đốn cho quân Pháp, nhất là vào những tháng cuối năm 1886, đầu năm 1887.
Từ chỗ là địa danh, hai tiếng “Ba Đình” đã trở thành tên gọi mang nhiều ý nghĩa lịch sử, quân sự như: “ căn cứ Ba Đình ”, “ chiến khu Ba Đình ” hay “ khởi nghĩa Ba Đình ”, đem lại niềm tự hào về tinh thần và truyền thống anh dũng đánh giặc, giữ nước của dân tộc. Chính vì lẽ đó, từ tháng 7 năm 1945, Ba Đình được dùng để đặt tên cho một địa điểm quan trọng ở Hà Nội. Và người có công đưa tên gọi của một vùng đất nơi xa về đây để trở thành tên gọi thiêng liêng ở Thủ đô Hà Nội không ai khác là Bác sỹ Trần Văn Lai, người đứng đầu bộ máy hành chính Hà Nội (tháng 7/1945) với chức danh Thị trưởng. Dù chỉ làm Thị trưởng Hà Nội chưa đầy một tháng (trước ngày Cách mạng tháng Tám thành công), nhưng “Cụ Đốc Lai” (tên gọi quý mến của Bác sỹ Trần Văn Lai) đã kịp làm hai việc thật sự có ý nghĩa, đó là: đổi hết “tên Tây” các đường phố, công viên, vườn hoa ở Hà Nội sang “tên Ta”; đồng thời tạo ra một hệ thống các danh nhân lịch sử ở cùng với nhau trên một không gian lịch sử (cách đặt tên đường, phố này ở Hà Nội đến nay vẫn còn nguyên giá trị). “Ba Đình” là danh từ được Thị trưởng Trần Văn Lai đem đặt lại cho “vòng xoay Puginier” (là bồn hoa cỏ hình tròn nằm giữa “Công viên trung tâm” phía trước cổng Phủ toàn quyền Pháp, nay là Phủ Chủ tịch).
Nếu “Ba Đình” dừng lại ở việc đổi đặt tên cho vườn hoa như thế thì chỉ mới giới hạn trong một việc nên làm. Địa danh này vụt trở nên có ý nghĩa hơn nhiều khi chỉ chưa đầy một tháng sau việc đổi tên vườn hoa ấy, vào ngày 02/9/1945 vị trí “vườn hoa Ba Đình” đã được lựa chọn làm nơi dựng lễ đài để Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; cũng là nơi hội tụ của hơn nửa triệu đồng bào về dự mít tinh, đồng thanh hô vang lời “Thề Độc lập”. Vườn hoa Ba Đình lúc đó là nơi “lễ trường hàng ngày” của người dân Hà Nội.
Thời gian Hà Nội bị quân Pháp tạm chiếm (1947-1954), “Vườn hoa Ba Đình” được đổi sang tên “Vườn hoa Hồng Bàng”. Sau ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954), Nhà nước ta đã quyết định đổi lại tên cũ, cũng là để bảo lưu địa danh nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập. Và điều đặc biệt nữa lưu lại dấu ấn hàng ngàn năm sau, đó là: Tại địa điểm “Vườn hoa Ba Đình”, nơi dựng lễ đài ngày lễ Độc lập đầu tiên ấy cũng chính là vị trí được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta chọn để xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh với mong muốn thiết tha” “ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta ”. Phía trước Lăng là quảng trường Ba Đình rộng lớn đủ sức làm nơi tụ hội của 20 vạn người.
Danh từ “Ba Đình” càng trở nên có ý nghĩa hơn nữa vì sau ngày giải phóng Thủ đô, cùng với nhiều địa phương khác, Hà Nội thực hiện việc điều chỉnh về địa giới hành chính; Và “Ba Đình” đã được dùng làm tên gọi của một trong 12 khu phố thuộc nội thành Hà Nội: Khu phố Ba Đình. Vào thời điểm 1958-1959, địa bàn Ba Đình vẫn còn chia thành hai khu gọi là khu Ba Đình và khu Trúc Bạch. Đến ngày 31/5/1961, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập khu phố Ba Đình, trên cơ sở sáp nhập khu Ba Đình, khu Trúc Bạch và 3 xã ngoại thành nam Hồ Tây. Ngay sau đó 9 ngày, vào ngày 9/6/1961 Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời khu phố Ba Đình, nay là Đảng bộ quận Ba Đình đã được thành lập để lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện hoạt động của Khu phố Ba Đình. Khu phố Ba Đình được chia thành 50 khối phố; đến tháng 5/1968 sáp nhập thành 35 tiểu khu. Tháng 6/1981, khu phố Ba Đình được đổi thành Quận Ba Đình, gồm 15 phường. Từ ngày 05/01/2005, khi thực hiện điều chỉnh địa giới một số phường và lập thêm hai phường mới (Liễu Giai và Vĩnh Phúc) quận Ba Đình ổn định với 14 phường như hiện nay.
Ba Đình – mãi đồng hành cùng cả nước
Những giá trị về lịch sử và văn hóa luôn được gạn lọc để trường tồn, vượt qua các giới hạn không gian và thời gian. Qua bao nhiêu thế hệ, người dân Ba Đình vẫn luôn gìn giữ trong mình niềm tự hào về một vùng đất địa linh nhân kiệt, về con người nơi đây giàu lòng yêu nước, dũng cảm, sáng tạo, hào hoa. Nơi ấy, may mắn thay, còn nhận vinh dự và trách nhiệm trước cả nước về việc lưu giữ nhiều di tích lịch sử, công trình và di sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể: Hoàng thành Thăng Long, Lăng Bác Hồ, quảng trường Ba Đình, cột cờ Hà Nội, đền Quán Thánh, đền Voi Phục (hai trong Thăng Long tứ trấn), chùa Một Cột, những làng nghề nức tiếng như: hoa Ngọc Hà, đúc đồng Ngũ Xã, thuốc Đại Yên… Dù ở thời kỳ nào của lịch sử và cách mạng, các thế hệ người dân Ba Đình vẫn luôn đồng lòng chung sức, góp công góp của, sãn sàng chiến đấu, hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Thành phố và việc tập hợp, phát huy sức mạnh to lớn mọi lực lượng của Mặt trận Việt Minh, nhân dân Ba Đình đã sát cánh cùng các lực lượng Thủ đô làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 tại Hà Nội, góp phần giành độc lập cho Tổ quốc. Tiếp đến là cuộc chiến đấu bền bỉ mười ngàn ngày chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; người dân Ba Đình lại cùng Thủ đô và cả nước dũng cảm chiến đấu theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ: “ Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi ”. Tinh thần “ Không có gì quý hơn độc lập, tự do ” theo suốt cuộc trường chinh 30 năm của dân tộc để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu ”, làm nên chiến thắng “ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào ” kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối.
Sáu mươi năm là quãng thời gian rất dài trong cuộc đời một con người; nhưng chỉ như một cái “chớp mắt” của lịch sử. Song những giá trị tinh thần thì không thể dơn thuần chỉ đo đếm bằng con số toán học. Sáu mươi năm đã qua kể từ ngày 31/5/1961 khi Khu phố Ba Đình có quyết định thành lập; và đặc biệt hai mươi năm sau (tháng 6/1981) khi đơn vị “khu phố” được thay bằng đơn vị “quận”; có thể nói từ đấy, hai tiếng “Ba Đình” cũng chính thức được gắn kết với một đơn vị hành chính. Trong quãng thời gian hơn nửa thế kỷ ấy, ở bất cứ thời điểm, hoàn cảnh nào, cán bộ và nhân dân Ba Đình luôn nỗ lực hết mình để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Trong thời kỳ cùng cả nước đi lên trên con đường đổi mới, vượt qua bao trở ngại khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế để gặt hái những thành quả bước đầu rất đáng khích lệ trong công cuộc đổi mới. Kinh tế phát triển bền vững, ổn định với cơ cấu hợp lý và tăng trưởng qua các năm, thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư. Đặc biệt từ năm 2000 đến nay, giá trị sản xuất chung toàn quận liên tục tăng trưởng trên 10%/năm, đạt và vượt chỉ tiêu đặt ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các nhiệm kỳ. Trên lĩnh vực giáo dục, đào tạo, phát triển văn hóa, xây dựng đạo đức lối sống, xây dựng con người Hà Nội thanh lịch, văn minh; công tác y tế, chăm lo sức khỏe nhân dân và chính sách xã hội luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm, tổ chức thực hiện tốt. Việc phát triển giao thông, đô thị được chú trọng; nhiều dự án trọng điểm của Trung ương và Thành phố được tập trung giải quyết, góp phần tạo cảnh quan quận Ba Đình “Sáng, xanh, sạch, đẹp, hiện đại, văn minh”. Ba Đình cũng là một trong các đơn vị đi đầu về cải cách hành chính, đạt được nhiều tiến bộ, hướng tới xây dựng mô hình cơ quan điện tử, chính quyền đô thị.
Đổi mới tổ chức bộ máy và hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ then chốt được Đảng bộ quận quan tâm tổ chức thực hiện. Hàng năm có gần 80% tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân. Công tác xây dựng, củng cố chính quyền luôn được làm tốt, từng bước trưởng thành để thực sự là chính quyền “của dân, do dân và vì dân”. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội của quận ngày càng vững mạnh, làm tốt chức năng, nhiệm vụ tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt giám sát, phản biện xã hội và đối thoại, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, góp phần quan trọng vào hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Ghi nhận những thành tích xuất sắc và sự đóng góp to lớn của nhân dân và Đảng bộ quận Ba Đình, Nhà nước và các ngành, các cấp đã tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho các tập thể, cá nhân. Đặc biệt, quận đón nhận danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang” năm 2000; danh hiệu “Anh hùng Lao động” vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc 10 năm giai đoạn 1995-2004 và “ Anh hùng Lao động ” thời kỳ đổi mới (năm 2010); Huân chương Lao động hạng Nhất trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quận (tháng 5/2011).
Thay cho lời kết
Đã hơn 75 năm qua, hai tiếng “Ba Đình” được “nhập nội” (từ của Giáo sư Lê Văn Lan) vào Hà Nội. Và ngay lập tức được đón nhận, tôn vinh và in sâu vào tâm khảm nhiều người dân Thủ đô và cả nước. Bởi vì danh từ riêng ấy khi được gắn vào những địa điểm, những vùng đất quan trọng hay đặc biệt đã trở thành những địa danh thiêng liêng; mà giá trị về lịch sử, văn hóa chắc chắn sẽ còn được lưu giữ, trân trọng lâu dài.
Kỷ niệm sáu mươi năm tròn một đơn vị hành chính cấp quận được vinh dự mang tên “Ba Đình” là thêm một dịp để cán bộ, nhân dân quận Ba Đình ôn lại và ghi nhớ một sự kiện quan trọng và ý nghĩa đối với địa phương, để thêm yêu thương vùng đất này, thêm nhiệt tình đóng góp nhiều nhất trí tuệ và sức lực của mình xây dựng quận Ba Đình giàu đẹp, hiện đại, văn minh, mãi xứng với danh xưng cao quý: Ba Đình.
Nguồn: UBND quận Ba Đình
