Trang chủ Tin tức Hoạt động

Nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp 9

22/09/2020

 

 

Công tác chủ nhiệm lớp đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh, công tác này góp phần chủ đạo không chỉ trong việc giúp các em tiếp cận, lĩnh hội tri thức văn minh của nhân loại mà còn trong quá trình dần hình thành nhân cách để các em có đạo đức trong sáng, có lối sống, tác phong, cách ứng xử với gia đình, thày cô, bạn bè và những người khác một cách đúng mực. nó quyết định đến chất lượng “Sản phẩm giáo dục” - chính là bản thân các em học sinh - trong từng năm học. Nó giúp các em tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành con ngoan, trò giỏi, đội viên tốt, cháu ngoan Bác Hồ và trở thành con người có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội ngay từ khi các em đang còn ngồi trên ghế nhà trường và cả tương lai sau này nữa. Mà sản phẩm này không giống như những sản phẩm hay hàng hóa khác (bởi vì đó là con người), nên công tác chủ nhiệm càng được coi trọng trong công tác giáo dục toàn diện cho học sinh. Trong công tác chủ nhiệm thì giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất và chính các thày cô chủ nhiệm sẽ là người quyết định đến phong trào của lớp, đến chất lượng giáo dục, đến kết quả phấn đấu của học sinh trong một năm học, vậy chúng ta phải làm thế nào để nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp đặc biệt với những lớp ở khối 9 - khối cuối cấp bậc trung học cơ sở? Đây là câu hỏi khó mà bất cứ thày cô giáo chủ nhiệm khối 9 nào cũng suy nghĩ, băn khoăn và trăn trở để tìm ra câu trả lời. Chính vì vậy tôi xin chia sẻ một vài kinh nghiệm “Nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp 9” với mong muốn chia sẻ với các đồng nghiệp những kinh nghiệm của bản thân và góp một phần nhỏ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh.

Một là: Giáo viên chủ nhiệm phải có năng lực quản lí

Thông thường mỗi GVCN phải quản lý một lớp khoảng 30-35 học sinh trong 1 đến 2 năm, vì vậy có thể xem GVCN như một người quản lí. Do đó, năng lực quản lý, lãnh đạo của GVCN là yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định đến sự thành công của một lớp học.

GVCN phải có đủ hiểu biết và các kỹ năng để điều tra khảo sát, xây dựng kế hoạch lớp chủ nhiệm, tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục đến từng học sinh. Ngoài việc thực hiện các chỉ đạo của Hiệu trưởng, của ngành thì GVCN cần phải biết xây dựng các hoạt động độc lập riêng, mang tính đặc thù của lớp mình. GVCN cũng cần phải có tầm nhìn, phát hiện và giải quyết sớm các vấn đề nảy sinh ở lớp mình chủ nhiệm. Khi triển khai một hoạt động giáo dục mới cần phải có kỹ năng “truyền lửa”, kỹ năng “đọc vị” như các nhà huấn luyện viên của các đội tuyển. Người giáo viên chủ nhiệm cũng phải là người “Cầm cân, nẩy mực” trước những điều bất hợp lí xảy ra trong lớp. Vì thế rất cần ở giáo viên chủ nhiệm lớp các phẩm chất công tâm, nhiệt tình, trách nhiệm, tâm lí yêu thương học sinh và xây dựng một ban cán sự lớp tự quản có uy tín, có trách nhiệm, có năng lực, bản lĩnh.

Hai là: GVCN phải Gần gũi, thấu hiểu quan tâm và nắm chắc hoàn cảnh của từng HS trong lớp.

Đầu năm khi nhận lớp việc đầu tiên tôi làm là phải nắm bắt được thông tin cá nhân từng em, cho các em viết lí lịch trích ngang, biết được vị trí nhà ở của các em gần gũi thấu hiểu và nắm chắc hoàn cảnh của từng học sinh trong lớp về những thuận lợi và khó khăn đặc biệt quan tâm đến học sinh có hoàn cảnh đặc biệt và các đối tượng con nhà có điều kiện, học yếu, lười học,… các em khả năng học tập chậm, không có khả năng nhớ,…những trường hợp này tôi luôn gần gũi trò chuyện tiếp xúc với các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có thể rễ dàng bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi cần thiết. Qua đó tôi sẽ hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những suy nghĩ nông cạn, sai lầm hay các hành vi không hay… hướng các em nhận thức được giá trị bản thân, nâng cao lòng tự trọng và biết cố gắng để vượt qua những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống.

GVCN phải bằng tấm lòng nhân ái, bao dung không vụ lợi đến với học sinh bằng tấm lòng chân thành, cởi mở. Chính vì vậy tôi luôn tâm đắc những dòng chữ của một thầy giáo người Nga đã viết: “Đến với một nhà giáo dục điểm chủ yếu là tình người”. Đó cũng là nhu cầu sâu sắc trong lòng mỗi con người. Có lẽ mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vô cùng quan trọng. Vì khi ta tạo ra niềm vui cho người khác, cho trẻ thơ thì ở họ sẽ có một tài sản vô giá: Đó là tình người mà tập trung ở sự nhiệt tâm, thái độ ân cần, sự chu đáo, lòng vị tha”. Để thể hiện tình người tôi đã giáo dục học sinh cần quan tâm đến người khác bằng những việc làm cụ thể như: Tham gia các phong trào từ thiện nhân đạo, kế hoạch nhỏ, giúp đỡ các bạn khó khăn trong lớp,… Việc làm này tuy nhỏ nhưng có tác dụng làm cho học sinh tự động viên nhắc nhở nhau trong học tập và tinh thần đoàn kết tương thân tương ái.

Ba là: GVCN phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo

Người giáo viên phải thực sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng toàn vẹn từ nhận thức đến hành động thực tiễn, từ lời nói cử chỉ điệu bộ đến thái độ ứng xử hằng ngày đây là cách giáo dục dùng nhân cách tác động đến nhân cách. Để trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo, tôi luôn quan niệm: Phải sống cho trong sạch dù có nghèo về vật chất nhưng luôn giàu có về mặt tâm hồn, tình cảm và mỗi ngày sẽ là một sự tiến bộ hơn hoàn thiện hơn.

GVCN phải rèn luyện tay nghề để trở thành giáo viên dạy giỏi, vững vàng về chuyên môn. Có nhiều quan điểm cho rằng dạy và chủ nhiệm là hai công việc khác nhau, không liên quan đến nhau. Tôi cho rằng GVCN phải ý thức được giảng dạy bộ môn tốt góp phần quan trọng cho công tác chủ nhiệm tốt ở ngay lớp mình chủ nhiệm, góp phần tạo nên uy tín của giáo viên, hơn nữa tâm lí học sinh cũng như phụ huynh luôn cảm thấy yên tâm khi GVCN có năng lực chuyên môn. Ngoài ra GVCN là người cha, người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho các em, phải biết lắng nghe học sinh nói và không áp đặt học sinh. Có như thế các em mới thấy mình được tôn trọng.

Như chúng ta đã biết, các em học sinh bậc THCS ở độ tuổi “dậy thì”, “ tuổi khó bảo” rất dễ tự ái, dễ chán nản trước những khó khăn trong học tập có lòng tự trọng và sĩ diện rất cao. Chỉ cần một sơ suất nhỏ của giáo viên sẽ để lại ấn tượng không tốt cho học sinh, đặc biệt là các em học sinh cá biệt các em sẽ biến đó thành trò đùa và không tin vào lời giáo viên nói, lúc đó các em chỉ tỏ vẻ thách đố và trêu ngươi, chọc tức giáo viên,… Đối với những trường hợp này tôi luôn động viên khuyến khích các em phân tích phải trái có lí, có tình để các em thấy rõ cái sai của mình mà sửa chữa. Song không dễ dãi, hời hợt để các em có tư tưởng thỏa mãn, dừng lại bằng lòng với bản thân. Nhưng cũng không quá khắt khe gay gắt dễ dồn các em đến chỗ tự ti, chán nản. Đối với HS giỏi, tôi động viên các em tích cực tìm tòi, học hỏi để nâng cao năng lực của bản thân. Tự bản thân tôi thấy phải luôn trau dồi kiến thức để có thể giải đáp được những băn khoăn thắc mắc của HS, tìm thêm những bài tập lí thú cho các em thử sức. Với những em học lực yếu hay mang tâm lí mặc cảm, tự ti trước lớp thì giáo viên cần gần gũi cởi mở, khích lệ để các em tự tin hơn. Đối với HS có sức ì lớn trong học tập tôi quan tâm chỉ bảo ân cần, bình tĩnh và kiên nhẫn. Bên cạnh đó, tôi cũng cần tổ chức tốt các mô hình ‘Bạn giúp bạn”, “Đôi bạn cùng tiến” để các em giúp đỡ lẫn nhau vì nhiều khi “Học thầy không tày học bạn”. Chính qua những hoạt động nhóm, bạn giúp bạn mà tình cảm của các em thêm bền chặt, kết quả học tập của các em chậm tiến cũng tiến bộ rõ rệt. Khi có hiện tượng mất đoàn kết, hành vi không đúng mực xảy ra giữa các nhóm học sinh thì GVCN phải gặp gỡ lớp, từng nhóm, từng đối tượng để thu thập thông tin, lắng nghe và tạo cơ hội cho các em được nói lên những suy nghĩ của mình về bạn bè, về thầy cô giáo, không nghe và xử lí tình huống từ một phía.

Để khích lệ các em, tôi luôn gần gũi, quan tâm, khen chê các em đúng và kịp thời, xử phạt nghiêm minh. Tổ nào ý thức đoàn kết tự quản tốt, cá nhân nào gương mẫu, tiến bộ, thành tích tốt đều được tuyên dương, khen thưởng kịp thời trong mỗi tiết sinh hoạt vào cuối tuần. Dịp cuối tháng thì xếp loại thi đua và gửi kết quả rèn luyện của HS về cho gia đình. Để làm được việc này, tôi đã tham mưu và phối hợp với BCH Hội cha mẹ học sinh để thống nhất về cách thực hiện cũng như khen thưởng. Ban đại diện phụ huynh chủ động mua sắm quà tặng cho các con và các bậc cha mẹ học sinh lớp rất ủng hộ cách làm này. Phần thưởng cho các em là những đồ dùng học tập như viên tẩy, bút chì, hộp màu; cuối tháng thì là những cuốn truyện, tập thơ. Chính vì vậy mà em nào cũng rất thích thú và hăng say phấn đấu.

Bốn là: GVCN là “cầu nối đa năng” Phối hợp với giáo viên bộ môn trong công tác giảng dạy

Trong quá trình giảng dạy, bên cạnh sự quán xuyến, đôn đốc, theo dõi của GVCN còn có một tập thể các thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy và truyền đạt kiến thức bộ môn. GVCN có thể trao đổi với giáo viên bộ môn để nắm bắt thêm về tinh thần, thái độ học tập, ý thức tổ chức kỷ luật, học lực…của từng học sinh trong lớp. Từ đó tạo điều kiện cho giáo viên chủ nhiệm có sự nhìn nhận và đánh giá khách quan về chất lượng học tập của từng học sinh trong lớp đồng thời có biện pháp động viên, nhắc nhở, giáo dục phù hợp đối với từng học sinh giúp các em học tập và rèn luyện nhân cách đạo đức tốt hơn .

Năm là: Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với phụ huynh của lớp.

Để làm được công tác chủ nhiệm tốt, tôi không thể không nói tới sự phối hợp chặt chẽ giữa GVCN và phụ huynh học sinh. Đây là mối quan hệ không thể thiếu được. Chính vì vậy trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm GVCN phải cố gắng nắm bắt số điện thoại liên lạc của gia đình, đây là điều kiện thuận lợi giúp GVCN trao đổi gián tiếp với cha mẹ học sinh khi cần thiết. Ngoài ra GVCN cần phải tiếp xúc riêng để trao đổi thông tin với cha mẹ học sinh những học sinh cá biệt. Thông qua công việc này giúp giáo viên biết được các thói quen, sở thích thái độ của học sinh thường biểu hiện ở gia đình. Qua đó giúp cha mẹ học sinh biết được tình hình học tập những dấu hiệu sa sút của các em đồng thời giúp cha mẹ học sinh thấy được sự quan tâm của nhà trường đối với gia đình từ đó tạo được niềm tin đối với phụ huynh trong việc giáo dục con cái họ. Thông tin cập nhật các hoạt động của nhà trường, của lớp trên nhóm lớp,…Mối quan hệ có tác động hai chiều này nhằm hạn chế bớt mặc cảm, tự ti ở các em giảm bớt tâm lí lo sợ khi tiếp xúc với GVCN.

          Sáu là: Làm tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh

          Bên cạnh việc dạy kiến thức và giáo dục đạo đức cho học sinh hằng ngày, trong mỗi giờ học, thì việc hướng nghiệp cho học sinh lớp 9 chiếm vị trí quan trọng, khẳng định vai trò quan sát, định hướng chuẩn cho mỗi cá nhân học sinh, là bước đệm quyết định tương lai của các em, lựa chọn phù hợp là một yếu tố để phụ huynh yên tâm khi đồng hành cùng giáo viên. Với tôi luôn coi học sinh là con mình, để tìm cho con những gì thuộc về con,…mỗi dịp cuối năm giấc ngủ của tôi không được tròn vì các em học sinh lớp 9 – lớp tôi làm chủ nhiệm, để cho các em luôn nở nụ cười mỗi ngày đến lớp,…để sau tốt nghiệp các em đến đúng môi trường phù hợp với các em.

Vì vậy theo tôi hai yếu tố cốt lõi không thể thiếu đối với giáo viên chủ nhiệm là cái tài của một nhà tâm lí và cái tâm của một nhà giáo dục. Làm tốt hai yếu tố này thì người giáo viên nói chung và người giáo viên chủ nhiệm nói riêng đều có thể làm tốt trách nhiệm của mình trong thời đại mới 4.0 và luôn để lại ấn tượng tốt trong lòng học trò.

Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi về công tác chủ nhiệm lớp, tôi mong được sự chia sẻ thêm của đồng nghiệp, để bản thân khi làm chủ nhiệm lớp đạt nhiều thành công hơn.

 

Đánh giá:
Tổng số điểm của bài viết là: 0/5 trong 0 đánh giá
Chia sẻ: