Tín ngưỡng phồn thực trong văn học Việt Nam

28/03/2023
Văn học Việt Nam nửa cuối TK XVIII, đầu TK XIX là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền văn học dân tộc Việt Nam bấy giờ lấy Nho giáo làm ý thức hệ chính thống. Trong mấy thế kỷ, khi chế độ Phong Kiến đang lên thì Nho giáo cũng có được một vị trí và uy lực nhất định của nó. Nhưng khi khủng hoảng thì Nho giáo đã bị đả kích, những lý thuyết tam cương, ngũ thường, ngũ luân của Nho giáo bắt đầu bị đả phá – đây chính là tiền đề, cơ sở cho sự xuất hiện trào lưu tư tưởng nhân văn, đề cao con người và cuộc sống trần tục. Ngoài lý do chống lại ý thức hệ Nho giáo, các nhà thơ TK XVIII và XIX nói nhiều đến chủ đề tình – dục, vì theo họ, điểm khác biệt chính yếu của con người với con vật là ở chỗ con người là “giống hữu tình”. Văn học giai đoạn này đã lấy hình ảnh người phụ nữ làm đối tượng phản ánh và lấy chủ tình làm đề tài chính yếu. Chính vì vậy, dấu ấn phồn thực trong văn học, đặc biệt là trong thi ca giai đoạn này rất đậm nét, bất chấp sự đàm tiếu của thế tục, sự chê bai của chính trị, vượt lên trên sự e ngại vi phạm chuẩn mực lễ giáo chính thống Nho gia để cho ra đời những áng văn bất hủ về đề tài tình yêu, tình dục. Hơn thế, nhữ ng tuyệt tác ấy còn ẩn chứa lời kêu gọi giải phóng phụ nữ ở Việt Nam.
Đọc Chinh phụ ngâm, chúng ta đều thấy đó là khúc ngâm từ tiếng lòng, là nỗi nhớ khát khao của người phụ nữ khi phải xa chồng “đưa chàng lòng dặc dặc buồn”, để rồi sự đợi chờ mòn mỏi đó được ví như “ngồi trong bóng rèm”, người chinh phụ ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu. Hình ảnh “trong rèm” ấy chính là miêu tả cuộc đời con người bị trói buộc trong một không gian chật hẹp, tù đọng của sự không thỏa mãn dục tính, khiến người chinh phụ đã thốt lên thứ triết lý sống, triết lý hạnh phúc, xét cho đến cùng chỉ còn là ở đây và bây giờ “Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy/ Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau/ Thiếp xin chàng chớ bạc đầu/ Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”. 
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều lại mượn kiếp người cung nữ mà suy tư đất trời, phê phán thời thế: “Phong trần đến cả sơn khê/Tang thương đến cả hoa kia cỏ này”, “Chống tay ngồi ngẫm sự đời/ Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm”. Với thứ ngôn ngữ vừa nôm na, dung dị: “Lau nhau ríu rít cò con cũng tình”, vừa thâm sâu thông tuệ: “Trải vách quế gió vàng hiu hắt/ Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng/ Oán chi những khách tiêu phòng/ Mà xui phận bạc nằm trong má đào”, Cung oán ngâm khúc đã diễn tả nỗi lòng ai oán của người cung nữ khi thiếu thốn và khao khát tình – dục “Cười nên tiếng khóc hát nên giọng sầu”, “Một mình đứng tủi ngồi sầu/ Đã than với nguyệt lại rầu với hoa”, “Hoa này bướm nỡ thờ ơ/ Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng…”.
Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã cho thấy nhiều suy tư đến chủ đề tình – dục, mặc dù xã hội mà ông đang sống, đạo lý của Khổng giáo đã ngự trị hàng nghìn năm, hình thành nên những quy tắc ứng xử rất khắc nghiệt với người phụ nữ.
 
Việc phân tích dấu ấn của tín ngưỡng Phồn thực trong thi ca Việt Nam cuối TK XVIII, đầu TK XIX cũng là để khẳng định rằng, tín ngưỡng phồn thực đã hình thành từ rất lâu trong đời sống người Việt và có sức sống bền vững trong đời sống dân gian. Nhưng quả thật là khó để thâm nhập vào văn học thành văn và bác học, bởi văn học của người Việt ngay từ buổi đầu hình thành và trải qua nhiều thế kỷ đều được xây dựng trên những phương thức, chất liệu, mỹ cảm đậm màu khắc dục, hướng đến vẻ đẹp siêu thoát, thanh khiết. Tuy nhiên cuối cùng, khát vọng tình yêu, tình dục chân chính, cái đẹp của dục tính là không thể chối bỏ mà phải thừa nhận nó là ngọn nguồn khởi thủy, là bản năng sống còn của loài người, là cái đẹp không thể thiếu được trong cuộc sống.
Ban truyền thông
Đánh giá:
Tổng số điểm của bài viết là: 5/5 trong 1 đánh giá
Chia sẻ: